Ban biên tâp: Trần Thị Diễm Trinh(Trưởng ban)Phạm Quang Trí(Phó ban TT)Nguyễn Hữu Lợi (Phó Ban)


*

(TG) - Năm 2021 theo lịch can chi là năm Tân Sửu, còn gọi là năm Con Trâu. Tân là tên thứ 7 trong 10 tên của Thiên Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). Sửu là tên thứ 2 trong 12 tên Địa Chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Trâu - một con vật vô cùng thân thuộc trong đời sống của người nông dân Việt Nam.
Ảnh minh họa
CON TRÂU LÀ ĐẦU CƠ NGHIỆP

Với một nước nông nghiệp như Việt Nam, từ thuở “sơ khai” cho đến những năm cuối của thế kỷ 20, việc cày bừa - công việc quan trọng nhất trong quá trình canh tác cấy trồng, vẫn trông cậy chủ yếu vào sức kéo của trâu, bò. Tuy bò cũng là vật kéo cày quan trọng, nhưng trâu mới là chủ lực. Cũng bởi trâu có sức vóc lớn hơn, khỏe hơn; trâu chịu được nước sâu như ruộng rộc, ruộng ngập nước, lầy thụt. Trong khi, bò là động vật sợ nước, không thể thích ứng được mọi điều kiện, hoàn cảnh. Trâu chịu nắng chịu mưa tốt hơn bò. Khỏe như trâu cơ mà.

Bạn đang xem: Động vật gọi là min

Trong suốt chiều dài lịch sử của nền văn minh lúa nước, chú trâu hiền lành, chịu thương chịu khó đã trở thành người bạn của nhà nông. Cũng có những thời điểm và “hoàn cảnh lịch sử” mà con người phải “kéo cày thay trâu”, nhưng về “tổng thể”, trâu vẫn là con vật “lĩnh ấn tiên phong” trong nhiều công đoạn làm ruộng, từ cày vỡ, cày ải, cày đánh luống đến bừa vỡ, bừa kĩ, bừa trang luống... Con trâu đi trước cái cày theo sau đã thành một trong những hình ảnh biểu trưng về cảnh làm ăn của người nông dân Việt Nam.

“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu / Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” là hai câu ca dao vẽ nên bức tranh thật đẹp về đồng quê Việt Nam vào mùa vụ. Qua mùa cày cấy, trâu lại làm nhiệm vụ kéo xe - vận chuyển những nguyên vật liệu cần thiết cũng như chuyên chở “thành quả lao động” sau khi thu hoạch. Sau những lúc “nông vụ chí kì”, hình ảnh chú trâu đủng đỉnh gặm cỏ trên đồng, trên lưng trâu vắt vẻo mục đồng thổi sáo là một trong những “khuôn mẫu” cho phong cảnh bình yên, nên thơ và lãng mạn của làng quê Việt Nam.

Thật không ngoa khi nói rằng, trâu không chỉ là gia súc “đầu cơ nghiệp” mà còn là vật gắn bó nghĩa tình, bầu bạn với người nông dân thời trước; là “biểu tượng” “thước đo” sự giàu - nghèo, sang - hèn. Nhà giàu thì có “ruộng sâu, trâu nái” có “ba bò chín trâu”, “chín đụn mười trâu”…; người có hoàn cảnh khốn cùng, bị thống trị, chèn ép thì ví như “thân trâu ngựa”,  chịu cảnh “cương ngựa ách trâu”…

Câu ca dao “Bao giờ cây lúa còn bông / Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn” là lời an ủi, vỗ về, nhắn gửi của người nông dân; không chỉ thể hiện ước mong về mùa màng tươi tốt, mà còn là sự “biết ơn” của con người đối với vật nuôi “đầu cơ nghiệp”. Với nhà nông, con trâu không chỉ là tài sản lớn mà còn là phương tiện lao động sản xuất quan trọng bậc nhất, là “tri kỷ” sớm hôm gắn bó. Chẳng thế mà, với xã hội nông thôn Việt Nam, từ xa xưa, “tậu trâu” đã được coi là một trong ba việc hệ trọng của đời người, trong đó “tậu trâu” đứng số một: “Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà / Cả ba việc ấy đều là khó khăn”.

Dù bây giờ, với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, máy móc đang dần thay thế sức người; “trâu sắt” thay thế “trâu đen” trên những cánh đồng canh tác nông nghiệp; phương tiện cơ giới đã trở thành chủ lực trong chuyên chở, vận chuyển - thay thế cho sức kéo của trâu, nhưng có lẽ câu tục ngữ “con trâu là đầu cơ nghiệp” vẫn còn ý nghĩa với chúng ta, ăn vào tiềm thức của nhiều thế hệ.

“LẠC ĐÀNG BẮT ĐUÔI CHÓ, LẠC NGÕ BẮT ĐUÔI TRÂU”

Đó là câu tục ngữ có xuất xứ từ miền Trung. Tuy nhiên, nó còn được viết là: Lạc đường bắt đuôi chó, lạc ngõ bắt đuôi trâu (hay Lạc đường nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu). Đây là biến thể có tính toàn dân và có lẽ là khi đọc lên, hầu hết các từ ngữ đều rõ ràng, tường minh. Nhưng câu tục ngữ này vẫn có điều phải bàn thêm.

Câu này nói về chuyện ai đó đi đâu đấy nhưng thế nào lại bị lạc đường về. Những tình huống như vậy hẳn là không hiếm gặp, nhất là đối với những người ở vùng nông thôn, rừng núi đi xa vì công việc. Khi bị mất phương hướng không có ai chỉ dẫn thì một trong những giải pháp tình huống là trông cậy vào con vật nuôi của mình. Chó là "gia súc thuộc nhóm ăn thịt, nuôi để giữ nhà hay để đi săn". Còn trâu là "động vật nhai lại, sừng rỗng và cong, lông thưa và thường có màu đen, ưa đầm nước, người ta nuôi để lấy sức kéo, thịt và sữa". Cả trâu và chó đều là hai con vật có ích, giúp nhà nông trong lao động (cày bừa, kéo xe) hay trông nhà giữ cửa.

Tác giả Nguyễn Đức Dương (trong Từ điển tục ngữ Việt, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2010) có giải nghĩa câu này là "Lạc đường (về nhà) thì hãy nắm lấy đuôi lũ chó, lạc ngõ (dẫn vào nhà) thì hãy nắm lấy đuôi lũ trâu (vì đó là hai giống vật giỏi nhớ đường về hơn hết thảy)".

Tuy nhiên, người đọc có thể thắc mắc, là cùng giúp giải quyết chuyện "lạc" nhưng  tại sao "lạc đường" và "lạc ngõ" lại có chuyện khác nhau để rồi mỗi loại "lạc" lại dựa vào một con vật? Nếu trâu và chó đều có khả năng "nhớ đường" thì con nào dẫn đường chả được?

Trước hết, ta cần phân biệt "lạc đường" và "lạc ngõ" không giống nhau về khoảng cách lạc.

Theo kinh nghiệm dân gian thì loài chó, có bộ óc thông minh hơn, với tố chất đánh hơi phân biệt sự vật và "định vị" không gian tốt hơn loài trâu, vốn chỉ có khả năng định hướng trong phạm vi gần. Người đi cày dẫn trâu về đến làng, xuống ao rửa chân để trâu trên bờ, trâu có thể đủng đỉnh tự tìm đường về ngõ, về nhà và về chuồng. Tuy nhiên, nếu thả trâu giữa cánh đồng rộng, hay trên rừng, trên núi khá xa nhà thì trâu hoàn toàn mất khả năng định hướng tìm lối về. Trong khi đó thì bất cứ con chó nào cũng có thể lần ra đường về kể từ nơi xuất phát. Không ít trường hợp, có những chú chó bị thất lạc ở nơi rất xa, trong nhiều ngày, tưởng là mất. Ấy thế mà người ta lại thấy nó thình lình trở về trong niềm vui bất ngờ của gia chủ. Rõ ràng, bản năng "nhận biết" và "nhớ" của hai loài vật này là không giống nhau.

“ĐỂ LÂU CỨT TRÂU HÓA BÙN”

Trong tiếng Việt, cấu trúc A hoá (biến thành) B là một cấu trúc khá quen thuộc và không có gì đặc biệt. Chẳng hạn, chúng ta thường nghe nói: mèo già hoá cáo, cá chép hoá rồng, tằm hoá nhộng, chiều quá hoá hư,... Vậy, nếu xét đơn thuần về hình thức thì chuyện để lâu cứt trâu hoá bùn (hay cứt trâu để lâu hoá bùn) cũng có gì khác đâu nhỉ? Ấy vậy mà lại có sự khác biệt đáng kể.

Trước hết, có hai đối tượng tham gia vào sự tình “chuyển hoá” ở thành ngữ này. Thực thể nói đến đầu tiên là “chất thải” của con trâu; thực thể thứ hai là bùn - một thứ đất mịn nhão màu đen, lắng đọng ở đáy ao hồ hay đồng trũng. Một thứ chất thải động vật dĩ nhiên không thể là “đồng loại” với đất bùn được. Nhưng vì nếu chú trâu nào “xả chất thải” xuống nơi ao hồ hay đồng trũng, thì “chất thải” ấy cũng dễ dàng chìm lẫn với bùn. Theo thời gian, “chất thải” của trâu hoai mục và “biến thành” lớp bùn đen kia. Đó có vẻ như là một sự biến đổi bình thường của tự nhiên.

Song, điều đáng bàn là dân gian đã rất thâm thúy khi mượn hiện tượng tự nhiên này để chuyển tải một thông điệp ngữ nghĩa mang yếu tố xã hội. Đó chính là, thành ngữ trên dùng để chỉ “những việc cần phải giải quyết, thậm chí cần làm gấp, nhưng không được những người có trách nhiệm xem xét, xử lý kịp thời”. Ví dụ, công nợ của ai đó chưa kịp thanh toán, để lâu “cò cưa” khó đòi rồi sẽ “hoà cả làng”; một hành vi mắc lỗi, vi phạm, một vụ án “nóng”… rất cần đương sự hữu quan làm cho ra nhẽ, nhưng vì cơ quan chức năng không tích cực vào cuộc, thậm chí cố tình “để lâu” thì thời gian dễ làm cho bản chất sự việc “nguội” đi. Điều đáng nói là, câu thành ngữ đậm chất “nông nghiệp, nông thôn, nông dân” trên vẫn mang tính thời sự ở thập niên thứ ba của thế ký 21 này.

Quy luật thời gian cùng với sự bộn bề “trăm công ngàn việc” của cuộc sống dễ làm phân tán, “nhạt” sự chú ý đối với một vấn đề vốn “rất nóng” của ngày hôm qua. Mất tính thời sự, giảm sự căng thẳng, không còn thu hút sự quan tâm của mọi người, vấn đề “nóng” “gay gắt” sẽ dẫn trở nên “bình thường”, kém gay gắt, thật giả lẫn lộn và rất dễ rơi vào quên lãng. Chúng ta từng biết có những câu chuyện, vấn đề bức xúc dư luận đến mức “tày đình” ở nơi này, nơi kia, địa phương A, cơ quan B, nhưng vì “để lâu” nên rơi vào “sự im lặng đáng sợ”!

Kéo dài thời gian, lợi dụng sự vô tâm, cố tình “xuê xoa”… đã và đang là một trong những “cách làm” của không ít những cán bộ thiếu tâm, thiếu tầm, thiếu phẩm chất nhằm biến những quy phạm pháp luật, kỷ cương, lề thói..., vốn là những giá trị đích thực của cuộc sống, thành thứ “bùn” vô dụng lúc nào không hay./.

Bò tót (Bos gaurus) (tiếng Anh: Gaur) là một loài động vật có vú guốc chẵn, Họ trâu bò. Chúng có lông màu sẫm và kích thước rất lớn, sinh sống chủ yếu ở vùng đồi của Ấn Độ, Đông Á và Đông Nam Á. Chúng còn được gọi là bò rừng Mã Lai hay bò rừng bison Ấn Độ, tuy trên thực tế, chúng không hề có quan hệ gần gũi với loài bò rừng bison ở châu Âu và Bắc Mỹ. Chúng đã được liệt kê là loài dễ bị tổn thương trong sách đỏ IUCN kể từ năm 1986. Số lượng toàn cầu được ước tính tối đa là 21.000 cá thể trưởng thành vào năm 2016. Chúng đã giảm hơn 70% trong ba thế hệ gần đây và có lẽ đã tuyệt chủng ở Sri Lanka và cũng có thể ở Bangladesh. Trong các khu vực được bảo vệ tốt, số lượng chúng ổn định và ngày càng tăng.

*

Tại Việt Nam, bò tót được người dân tộc thiểu số gọi là con min hay minh, nghĩa là “trâu rừng”, do chúng có hình dáng tương tự loài trâu. Chúng là loài lớn nhất trong tất cả các loài Họ Trâu bò trên thế giới, to lớn hơn cả trâu rừng châu Á và bò bison châu Mỹ. Một con bò đực trưởng thành thường nặng hàng tấn. Ở Malaysia, chúng được gọi là seladang, và pyaung ပြောင် ở Myanmar.

Bò tót có thể sinh sống ở dạng hoang dã hay đã được con người thuần hóa. Các nhóm hoang dã và các nhóm đã được thuần hóa đôi khi được phân ra thành các nhóm riêng biệt, với bò tót hoang dã là Bos gaurus, còn bò tót thuần hóa là Bos frontalis. Trong truyền thông và thông tục, người Việt thường gọi giống bò đấu Toro Bravo (bò tót Tây Ban Nha) là “bò tót”, nhưng thực ra Toro Bravo không phải là loài bò tót mà là một giống bò nhà.

Đặc điểm sinh học của bò tót

Bò tót nhìn giống như trâu ở phía trước và giống như bò ở phía sau. Bò tót là loài thú có tầm vóc khổng lồ. Tại Ấn Độ và Mã Lai, bò tót được xem là biểu tượng của sức mạnh và sự cường tráng. Một con bò đực trưởng thành cao trung bình 1,8 – 1,9m, dài trung bình khoảng 3m. Khối lượng trung bình của bò tót Ấn Độ vào khoảng 1,3 tấn, bò tót Mã lai khoảng 1 tấn, và bò tót Đông Dương nặng 1,5 tấn. Những con to có thể cao tới 2,1 – 2,2m, dài 3,6 – 3,8m và nặng hơn 1,7 tấn. Với vóc dáng này, bò tót là loài thú lớn thứ 3 về chiều cao, chỉ xếp sau hươu cao cổ và voi, chúng cao hơn cả năm loài tê giác. Về khối lượng, bò tót đứng thứ 5 trong số các loài động vật trên cạn; xếp sau sau voi, tê giác trắng và tê giác Ấn Độ và hà mã. Con cái thấp hơn con đực khoảng 20cm và nặng khoảng 60 – 70% khối lượng con đực.

Bò đực có màu đen bóng, lông ngắn và gần như trụi hết khi về già. Bò cái có màu nâu sẫm, những cá thể sống ở địa hình khô và thưa còn có màu hung đỏ. Bò đực và cái đều có sừng. Sừng to, chắc, và uốn cong về phía trước. Chiều dài trung bình của sừng thường từ 80 – 85 cm ở bò đực, sừng bò cái ngắn, nhỏ hơn và uốn cong hơn. Trên trán, giữa 2 gốc sừng là 1 chỏm lông, thường có màu vàng. Mũi sừng có màu xanh xám, chuyền dần sang xám đen rồi đen bóng ở những chú bò già. Gốc sừng có màu xám đen, và có những lằn rãnh nằm ngang, gọi là răng. Phần giữa gốc sừng và mũi sừng có màu vàng nhạt.

Bò tót nhìn giống như trâu ở phía trước và giống như bò ở phía sau.

Đuôi chỉ dài ngang đến khuỷu chân sau. Ở cả bốn chân, từ khuỷu chân trở xuống có màu trắng, trông giống như đi tất trắng. Con đực còn có 1 luống cơ bắp chạy dọc sống lưng đến quá bả vai, và một cái yếm lớn trước ngực, tạo ra một dáng vẻ rất kỳ vĩ. Về mặt di truyền, trước đây người ta cho rằng chúng có quan hệ họ hàng gần với trâu, nhưng các phân tích gen gần đây cho thấy chúng gần với bò hơn, với bò chúng có thể sinh ra con lai có khả năng sinh sản. Người ta cho rằng họ hàng gần nhất của chúng là bò banteng và cho rằng chúng có thể sinh ra con lai có khả năng sinh sản.

Tập tính sinh sống của bò tót

Trong tự nhiên, bò tót sống thành từng đàn từ 8-10 cá thể. Những con bò đực già thường sống đơn độc hoặc hợp với nhau thành từng nhóm nhỏ. Bò tót thích ăn lá non, mầm tre non, cỏ non mới mọc ở nương rẫy cháy. Có thai khoảng 270 ngày, đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa một con. So với bò rừng, bò tót dữ hơn, nguy hiểm cho người hơn. Khi bị bắn, bò rừng phân tán chạy trốn nhưng bò tót sẵn sàng tấn công kẻ thù. Bò tót khá hung dữ, chúng hay húc tung những chướng ngại vật và có thể húc chết người.

*
Bò tót thích ăn lá non, mầm tre non, cỏ non mới mọc ở nương rẫy cháy

Một số con bò tót còn mò về giao phối với bò nhà, năm 2008, tại Việt Nam người dân địa phương phát hiện con bò tót đực cường tráng từ đại ngàn về làng, đuổi theo những con bò cái nhà ở khu vực nương rẫy dưới chân núi Tà Nin. Đến mùa động dục, con bò đó lại mò về. Nó sẵn sàng chiến đấu với đối thủ là những chú bò đực nhà đi chung bầy, nó đã hạ gục 7 bò đực trưởng thành, đồng thời cho ra đời hơn 12 con bò tót lai vượt trội về thể trọng và có các đặc điểm về lông, sừng.

Thiên địch của bò tót Việt Nam

Với vóc dáng khổng lồ và sức mạnh của mình, bò tót hầu như không có kẻ thù trong tự nhiên, ngoại trừ hổ. Hổ là loài thú săn mồi duy nhất có thể đánh hạ một con bò tót trưởng thành, tuy nhiên chỉ những con hổ trưởng thành có kích thước lớn và giàu kinh nghiệm mới dám đối đầu với chúng. Có ghi nhận về cảnh một con hổ Bengal săn bò tót Ấn Độ, con hổ này rình và lao vào con bò tót hổ tung ra nhát cắn đúng cổ họng khiến con bò tót to lớn không giằng co được lâu cuối cùng nó đành bất lực ngã gục.

Xem thêm: Danh Sách Tour Du Lịch Miền Bắc, Tour Miền Bắc

*

Các phân loài bò tót trên toàn thế giới

Bos gaurus laosiensis hay Bos gaurus readei: Bò tót Đông Dương, (có mặt ở Myanma và Trung Quốc), Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây là phân loài bò tót có tầm vóc to lớn nhất, nhưng đáng tiếc, cũng là giống bò tót bị tàn sát nhiều nhất. Một con đực to có thể cao tới 2,2 m và nặng trên 2 tấn. Hiện nay, tại Việt Nam chỉ còn khoảng 300 con bò tót, phân bố chủ yếu tại vườn quốc gia Mường Nhé (Điện Biên), vùng rừng núi Tây Nguyên, vườn quốc gia Chư Mom Rây (Kon Tum) và vườn quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), sân bay Phú Bài (Huế).Tuy nhiên, những đàn bò tót này đang đứng trước hiểm họa diệt chủng cao do rừng bị chặt phá và nạn săn trộm thú quý.Bos gaurus gaurus (Ấn Độ, Nepal) còn gọi là “bò rừng bizon Ấn Độ”, là phân loài phổ biến nhất. Phân bố tại Ấn Độ và Nepal, Bhutan. Rất to lớn, con đực có thể nặng tới 1,7 tấn, tuy nhiên vẫn nhỏ hơn bò tót Đông Dương. Sừng chúng cong hơn sừng bò tót Đông Dương.Bos gaurus hubbacki (Thái Lan, Malaysia). Đây là phân loài bò tót nhỏ nhất. Bò đực không có yếm trước ngực.Bos gaurus frontalis, bò tót thuần hóa hay bò tót nhà, có thể là con lai bò tót và bò nhà; có khả năng sinh sản.