Giới thiệu Kinh doanh Đơn vị Sản phẩm 3M Truyền thông Tin tức
Dân tộc nào cũng có cái hay, cái đẹp nhưng cũng có những cái xấu, cái chưa hợp lý… Vấn đề quan trọng là biết hư thì sửa, biết xấu thì làm cho đỡ xấu và tiến tới làm cho đẹp hơn.

Bạn đang xem: Thói quen tốt của người việt

Người nước ngoài nhìn ta:1. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).4. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê)6. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.9. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.10. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (Cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).Ta tự nhìn ta:1. “Giờ cao su”: Nhìn chung, ý thức giờ giấc của người Việt Nam rất kém. Nhiều bạn đi du học ở các nước phát triển lúc đầu rất hay bị bỡ ngỡ. Họ dễ bị trễ tàu, lỗi hẹn nhưng dần dần họ cũng khắc phục được. Ðến khi về nước họ lại khó chịu với “giờ cao su” của chúng ta.2. Thiếu tự tin và óc phê phán: Ðây cũng là nhược điểm của văn hoá phương Ðông có lối sống khép kín. Nhiều bạn sinh viên năm thứ ba, thứ tư Ðại học mà vẫn ngại phát biểu ý kiến hoặc trình bày vấn đề trước đám đông vì thiếu tự tin, thiếu thói quen suy nghĩ, đi học chỉ biết “chép chính tả”. Kiểu giáo dục thụ động luôn tỉ lệ thuận với sức ì của tư duy và tỉ lệ nghịch với óc phê phán (critical thinking) của thanh niên.3. Bệnh hình thức: Có bạn trong cơ quan hay công ty mình làm việc đang chẳng đâu vào đâu thì lại đi học master. Có bạn tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được việc làm cũng đi học master. Tư duy nặng về “điểm chác”, bằng cấp rất phổ biến. Không xác định tư tưởng học để làm việc mà học để lấy bằng. Người Mỹ có quan điểm: to learn is to change. Còn chúng ta ra sức theo học rất nhiều lớp học nhưng rốt cuộc cách làm việc không thay đổi gì cả, điều khác là chúng ta có thêm mấy cái bằng bổ sung vào hồ sơ cá nhân.4. Không tiết kiệm: hay tâm lí thích tiêu xài phung phí. Ðây là virus đang rất phổ biến và rất dễ lây lan trong giới trẻ. Họ quan tâm đặc biệt đến quảng cáo, thích xem các loại tem nhãn quần áo, nhận xét, đánh giá người khác qua tài sản, thấy thèm muốn, thán phục nếu ai đó có nhiều quần áo, xe, điện thoại, nhà…”xịn” hoặc tiêu xài sang hơn mình. Chúng ta đang tiêu dùng nhiều hơn chúng ta kiếm được.5. Thiếu trách nhiệm cá nhân, thừa trách nhiệm tập thể: Nói chung trong những người bình thường, chúng ta thường hay đùn đẩy trách nhiệm, bất kỳ việc gì chuyển được sang cho người khác cũng đều thấy nhẹ cả người. Khi xảy ra sai phạm đó sẽ là lỗi chung của cả tập thể chứ không của riêng cá nhân nào. “Sẵn sàng” nhận cả “phần” không phải của mình…6. Thể lực kém: xuất phát từ nhiều nguyên nhân như chế độ dinh dưỡng, chương trình học quá tải, học lệch, tâm lí lười vận động… Và hậu quả là khi làm việc với các đồng nghiệp nước ngoài, mặc dù rất cố gắng nhưng người Việt trẻ vẫn rất hay bị hụt hơi và cảm thấy khó có thể theo được cường độ làm việc của họ.7. Thiếu thực tế: Ông Kim Woo Choong – Chủ tịch Công ty Deawoo viết: “tuổi trẻ không có ước mơ thì không phải là tuổi trẻ… lịch sử thuộc về những người biết ước mơ”. Nhưng đó là những ước mơ hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Chúng ta thường hay suy nghĩ viển vông, thiếu suy nghĩ thực tế và chưa có suy nghĩ học là để làm việc.8. Tinh thần hợp tác làm việc theo team work còn hạn chế. Thế kỷ 21 là thế kỷ làm việc theo nhóm vì tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ngay cả văn học và nghệ thuật, một cá nhân cũng không thể đảm đương được. Mạnh ai nấy sống…9. Tác phong công nghiệp: Ðây là điểm rất quan trọng, có thể bao hàm một vài điểm đã nêu trước. Một nhà xã hội học Mỹ nói về nguồn gốc của cách làm việc tiểu nông như sau: “Anh nông dân sau khi gieo lúa xong có thể nhậu lai rai, ngủ dài dài và chờ đến thời điểm nhổ cỏ, bón phân mới làm tiếp. Mà việc này có làm muộn vài ngày cũng chẳng sao, không ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới. Nhưng một người công nhân đứng máy luôn luôn phải đúng giờ, có thao tác chính xác tuyệt đối và tinh thần kỷ luật cao. Một sơ suất nhỏ cũng có thể gây tác hại đến cả dây chuyền.”10. Thích đi trên lối đi có sẵn – Lối mòn, không thích tự mình mở ra một lối đi mới cho riêng mình.

Thói quen quan trọng như thế nào? Thói quen tốt giúp bạn thành công, hạnh phúc. Thói quen xấu cản trở, phá hỏng sự phát triển của bạn. Những quan niệm và nguyên tắc sống. Bạn nhìn nhận, suy nghĩ như thế nào, thì bạn sẽ đạt được đúng như vậy.Bạn đang xem: Thói quen tốt của người việt

SAU ĐÂY LÀ BẢY THÓI QUEN TỐT NƠI CÁC BẠN TRẺ THÀNH ĐẠT:

*Thói quen 1: Có thái độ sống tích cực. Có trách nhiệm với bản thân.

*Thói quen 2: Biết định hướng tương lai. Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của mình trong cuộc sống.

*Thói quen 3: Việc hôm nay không để ngày mai. Phải biết ưu tiên, điều gì quan trọng thì hãy làm trước.

*Thói quen 4: Tư duy cùng thắng. Tập thái độ không mong ai thua cuộc.

*Thói quen 5: Biết lắng nghe để thấu hiểu và để được thấu hiểu. Phải biết lắng nghe một cách chân thành.

*Thói quen 6: Có tinh thần hợp tác. Hợp lực làm việc để đạt hiệu quả cao nhất.

*Thói quen 7: Biết rèn luyện và phát triển những kỹ năng.

Hãy học hỏi để bản thân mình luôn hướng về phía trước và mới mẻ. Những thói quen này luôn có quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ với nhau. Thói quen 1,2,3 là để mỗi người tự rèn luyện mình nên gọi là những thói quen chiến thắng bản thân. Thói quen 4,5,6 là để tạo các mối quan hệ và tính đoàn kết tập thể nên gọi là chiến thắng với cộng đồng.

Bạn phải có « kỹ thuật cá nhân » trước đã rồi mới có thể tham gia chơi chung trong 1 đội mạnh. Cho nên phải rèn luyện bản thân trước khi đạt được chiến thắng tập thể. Thói quen cuối cùng là tự đổi mới. Nó sẽ hỗ trợ cho cả 6 thói quen kia. Những thói quen này có vẻ đơn giản phải không nào ? Thế nhưng nó tác động đến bạn rất mạnh mẽ đấy. Và khi bạn đã biết 7 thói quen tốt vừa đề cập thì cũng nên thử nghĩ xem những thói quen ngược lại xem chúng là gì ?

BẢY THÓI QUEN XẤU THƯỜNG THẤY NƠI CÁC BẠN TRẺ THẤT BẠI:

*Thói quen 1: Thụ động, có thái độ sống tiêu cực. Luôn đổ lỗi cho hoàn cảnh hay cho người khác, hoặc tìm lý do này nọ để biện minh cho mình. Không có trách nhiệm với lời hứa của mình và với người khác, hành động theo bản năng hơn là theo lý trí.

*Thói quen 2: Lười suy nghĩ. Không định ra kế hoạch, né tránh mục đích trong cuộc sống và chẳng bao giờ nghĩ đến tương lai. Họ chẳng phải lo lắng về hậu quả của những hành động của mình. Cuộc đời của họ chỉ là hiện tại thôi, ngày mai như đã là ngày tận thế rồi, tội gì không vui chơi thoả thích, vùi đầu vào các thú vui bất kể hậu quả ra sao.

*Thói quen 3: Nước đến chân mới nhảy. Dù việc có quan trọng đến đâu đi chăng nữa cũng lần lựa không làm cho xong. Lãng phí phần lớn thời gian vào các cuộc chơi. Luôn để bài tập về nhà đến ngày mai. Không coi trọng những việc phải làm.

*Thói quen 4: Chỉ nghĩ đến thắng thua. Họ nhìn cuộc đời như 1 cuộc đỏ đen. Bạn mình mà thắng thì có nghĩa là mình thua. Còn hễ có vẻ như mình sắp thua thì cũng phải kéo người khác cùng tuột dốc, chung số phận với mình mới thấy vừa lòng.

*Thói quen 5: Thích nói trước rồi mới nghe sau. Luôn luôn bày tỏ quan điểm của mình trước đã, khi đã chắc rằng mọi người hiểu mình thì mới nghe đến họ, hoặc giả vờ « ừ hử » cho qua chuyện.

*Thói quen 6: Không hợp tác với mọi người. Họ xem những người khác kỳ cục vì những người ấy nghĩ khác với mình. Mọi người đoàn kết lại hay chơi với nhau vì họ không muốn giống mình. Nếu ý kiến của mình là tuyệt vời thì việc gì phải hợp tác với ai, làm 1 mình vẫn sướng hơn chứ sao .

*Thói quen 7: Sống mòn. Không quan tâm trau dồi bản thân. Không chịu học hỏi những điều hay và ý tưởng mới. Họ không bao giờ luyện tập thể dục thể thao, tránh xa sách vở.

Bạn thấy đó, « họ » đôi khi chính là chúng ta. Những thói quen và tính cách này thật không tốt, nhưng đôi khi ta vẫn nuông chiều những thói quen xấu này, và lúc đó cuộc đời sẽ thật là tệ hại, kinh khủng.

NÓI CHÍNH XÁC THÌ THÓI QUEN LÀ GÌ ?

Thói quen là những việc bạn làm thường xuyên, lặp đi lặp lại, nhưng hầu hết đều khó khăn nhận ra chúng. Có những thói quen tốt như tập thể dục điều độ. Lên kế hoạch trước khi hành động, tôn trọng người khác… Có những thói quen xấu như suy nghĩ tiêu cực, tự ti, đổ lỗi cho người khác… Một vài thói quen khác vô thưởng vô phạt như tắm đêm, ăn trễ, đọc báo ngược từ trang cuối lên trang bìa… Tuỳ theo thói quen nào mà có thể giúp bạn nên người hoặc huỷ hoại bạn, như Samuel Smiles từng nói: “Gieo suy nghĩ, gặt hành động. Gieo hành động, gặt thói quen. Gieo thói quen, gặt tính cách. Gieo tính cách, gặt số phận. May mắn thay, con người lại mạnh mẽ hơn thói quen và do đó chúng ta có thể thay đổi được thói quen. Tuy sẽ có những thói quen rất khó thay đổi nhưng không phải là không làm được. Vào bất cứ lúc nào, bạn cũng có thể thay đổi 1 thói quen xấu bằng 1 thói quen khác tốt hơn. Tập được những thói quen tốt sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều.


Để duy trì sự sống, ăn uống luôn là việc quan trọng số một. Tuy nhiên, quan niệm và thói quen ăn uống của con người về vấn đề này hoàn toàn khác nhau, không ai giống ai. Đối với người Việt Nam, xuất phát từ nếp sống nông nghiệp thì ăn quan trọng lắm. Vì “có thực mới vực được đạo”, nó quan trọng tới mức “trời đánh còn tránh bữa ăn”, mọi hành động của người Việt đều lấy ăn làm đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học, ăn tiêu, ăn ngủ, ăn nằm, ăn cắp, ăn trộm…

Trong rất nhiều thói quen ăn uống của người Việt, dưới đây xin được giới thiệu và phân tích một số thói quen ăn uống phổ biến của người Việt vẫn tồn tại, dù ít nhiều đã thay đổi “hòa nhập nhưng không hòa tan”từ sự lai tạp văn hóa ở các nước khác.


*

Thích trò chuyện trong bữa ăn: Người Việt có thói quen tổ chức ăn uống tổng hợp, ăn chung. Cho nên các thành viên của bữa ăn liên quan và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Điều này khác hẳn với phương Tây, vì mỗi người đều có suất ăn riêng, mọi người hoàn toàn độc lập với nhau. Còn người Việt thì ngược lại, cho nên họ rất thích chuyện trò trong bữa ăn, trái hẳn với người Tây phương tránh nói chuyện khi ăn. Trò chuyện trong khi ăn là một nhu cầu thiết yếu của cư dân Việt, vì bữa ăn ngoài tác dụng “ăn để no” mà còn là dịp để anh em, họ hàng, bạn bè tụ tập lại để hỏi thăm sức khỏe, cuộc sống, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm làm ăn và có thể thoải mái bàn luận về vấn đề họ yêu thích. Vì có thức ăn ngon mà không hợp thời tiết thì không ngon, hợp thời tiết mà không có chỗ ăn ngon thì không ngon, có chỗ ăn ngon mà không có bạn bè tâm giao thì ăn cũng không ngon, có bạn bè tâm giao mà không khí bữa ăn không vui vẻ thì cũng ăn không ngon.

Ăn trông nồi, ngồi trông hướng: vì mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau nên phải ý tứ khi ngồi và mực thước khi ăn. Đây là biểu hiện cao trong đời sống cộng đồng của người Việt. Nó đòi hỏi người ăn đừng ăn quá nhanh, quá chậm; đừng ăn quá nhiều song cũng đừng quá ít; đừng ăn hết mà cũng không nên ăn còn. Do vậy, hiện tượng sau khi ăn, trong đĩa bày thức ăn lúc nào cũng còn dư thức ăn, còn thức ăn trong chén của mọi người đều đã được ăn hết. Thói quen ăn này phản ánh khi ăn cơm khách, một mặt khách phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, nhưng mặt khác lại phải để chừa một ít trong các đĩa đồ ăn để chứng tỏ rằng mình không chết đói, không tham ăn. Mặt khác, ăn nhanh biểu thị là người vội vàng, thô lỗ, ăn chậm khiến người ta phải chờ, ăn nhiều, ăn hết là tham lam, ăn ít, ăn còn là chê không ngon… Truyện dân gian thường phê phán những người vô ý khi ăn và có nhiều cảnh dùng bữa ăn để kén rể. Do vây, mà ông bà ta rất chú trọng và nghiệm khắc khi dạy con cái: “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Trong đó giáo dục cách ăn được ưu tiên hàng đầu vì thông qua cách ăn người ta có thể nhận xét và kết luận ít nhiều về nhân cách cá nhân đó và cả gia đình của họ.


*

Phải có chén nước mắm (hay nước tương) khi ăn. Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt, trong khi các món ăn khác thì có người ăn, người không, còn cơm và nước mắm thì ai cũng dùng, cũng chấm. Do vậy, chén nước măm trở thành thước đo sự ý tứ, đo trình độ văn hóa của con người. Chấm nước mắm phải cho gọn, sạch, không nhiễu, chấm vương vãi là thể hiện con người vụng về, ẩu tả, chấm nước mắm mà để rơi thức ăn vào chén nước mắm là mất vệ sinh, ở dơ, ở bẩn, chấm hụt (hai, ba lần chấm mới được) là người không làm được việc, hay sai sót, không nên tin tưởng..


*


*

Sử dụng đũa khi ăn: đây là cách ăn phổ biến của người Châu Á. Nó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt, xuất phát từ những thói quen ăn những thứ không thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào được (như cơm, cá, nước mắm…) của cư dân Đông Nam Á. Trong khi đó, người phương Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm dao, muỗng, đĩa (mô phỏng động tác của con thú xé mồi), mỗi thứ thực hiện một chức năng riêng lẻ (sản phẩm của tư duy phân tích). Đôi đũa của người Việt thực hiện một cách tổng hợp và rất linh hoạt hàng loạt chức năng khác nhau: gắp và xé, dầm, khoắng, trộn, vét và nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn xa!

Cuộc nghiên cứu mới nhất của Công ty Ogilvy & Mather châu Á - Thái Bình Dương về chế độ ăn uống tại 14 quốc gia trong khu vực (có Việt Nam) đã đưa ra nhận định: Thói quen ăn uống của người tiêu dùng đang thay đổi, có xu hướng thích sử dụng đồ hộp, thực phẩm chế biến, các loại thức ăn nhanh...

Ông David Elworth, Giám đốc kế hoạch, phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Công ty Ogilvy & Mather, phát biểu tại cuộc hội thảo "Những xáo trộn về thói quen ăn uống" được tổ chức tại TP HCM ngày 4/12: Do thời gian công việc quá bận rộn, người tiêu dùng thường tìm đến những quán xá bán thức ăn nhanh, nên không thể có được một bữa ăn đáp ứng đầy đủ dinh dưỡng. Trong các cuộc phỏng vấn gần 400 người tiêu dùng Việt Nam, có đến 35% người ăn tại quán hơn 3 lần/tuần (TP HCM: 51,4%, Hà Nội 18,6%); 50% người cho biết họ ăn lặt vặt suốt cả ngày thay vì trước đây chỉ ăn 3 bữa ăn chính. Trong khi đó đến 70% trẻ em cũng ăn uống không điều độ. Nguyên nhân của tình trạng trên là vì không có thời gian lựa chọn, mọi người thường ngại tìm hiểu các món ăn lạ nên thường chọn đồ ăn nhanh, thức ăn sẵn có bày bán khắp nơi.

Qua khảo sát thực tế tại thị trường Việt Nam cho thấy: Có đến 51,4% người tiêu dùng (đặc biệt là giới trẻ) đang ưa chuộng đồ hộp, thức ăn chế biến sẵn... Nhiều người thích ăn bánh snack, khoai tây chiên vì cho rằng có cảm giác vui vẻ khi ăn; khi uống nước ngọt có ga cảm thấy mình hiện đại; ăn thức ăn nhanh chứng tỏ được mình theo kịp tiến độ...

Việt Nam được ghi nhận là thị trường mới "nổi" về tiêu dùng hàng thực phẩm chế biến sẵn, có tốc độ phát triển rất nhanh. Dù chỉ có 24% người tiêu dùng tin tưởng vào những thông tin quảng cáo ghi trên bao bì các loại thực phẩm đóng hộp, nhưng chỉ có 30% cho rằng thực phẩm đó có ảnh hưởng xấu tới mình, so với 45% người tiêu dùng ở các nước trong khu vực. Với các nước khác, khi có một nhãn hiệu thực phẩm mới xuất hiện trên thị trường mà chưa biết rõ chất lượng, chỉ có trên 55% dám mua dùng thử, trong khi đó ở Việt Nam con số lên tới 73%.


*

Theo đánh giá của Tổ chức Sức khoẻ Thế giới: "Sức khoẻ của người châu Á gần đây tăng lên thông qua lượng dầu mỡ, protein trong thức ăn tăng cao nhưng chế độ dinh dưỡng lại giảm". Nhiều người cho rằng chọn món ăn càng đắt tiền càng bổ, như: thịt, jambon, xúc xích, lạp xưởng, các loại đồ hộp... Nhưng theo bác sỹ Nguyễn Thị Kim Hưng, Giám đốc Trung tâm Dinh dưỡng TP HCM, thì trong đồ hộp có nhiều chất bảo quản không gây tác hại nhưng cũng không tốt cho sức khoẻ nếu lạm dụng. Muốn có một thói quen ăn uống hợp lý, ngoài việc ăn thức ăn đủ cung cấp calo (khoảng 2.500-3.000 kcalo/người/ngày), cần có chế độ ăn đầy đủ món và phải ăn ít nhất 3 bữa cá/tuần.

Người Việt Nam lâu nay có thói quen "Ăn theo tiếng gọi của dạ dày chứ không ăn theo chế độ dinh dưỡng". Đó là lời nhận định của các chuyên gia dinh dưỡng về cách ăn uống thiếu khoa học hiện nay của số đông người dân.

Vì sao những lời cảnh báo này không được đưa ra sớm hơn, để bệnh tật không gia tăng đến chóng mặt như hiện nay?

Ăn cho sướng miệng

Sau nhiều năm trời phải ăn uống kham khổ do thiếu thốn, nay không ít người đã có suy nghĩ phải ăn uống thoải mái để bù lại những ngày tháng khổ cực đó. Bữa ăn ngày trước chỉ có cơm với rau. Thịt, cá là thức ăn quá "xa xỉ". Vậy mà, hơn 5 năm trở lại đây, nền kinh tế thay đổi, dịch vụ phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng lên rõ rệt đã làm biến đổi nhanh chóng cách ăn uống của người dân.

Từ chỗ ăn rau cho no bụng thì nay đổi sang ăn thịt, chất béo, chất đạm là chính. Nhìn từ góc độ xã hội, đó là sự thay đổi của thời đại văn minh, nhưng dưới cái nhìn của những nhà dinh dưỡng thì đó là sự báo động về cách ăn thiếu khoa học. GS. Hà Huy Khôi - Chủ tịch Hội Dinh dưỡng VN - cho rằng: Họ ăn nhiều thịt, chất béo, thức ăn nhanh và nguồn glucid tinh chế (đường ngọt)..., mà không biết rằng như thế là không tốt cho sức khoẻ".

Một điều tra về tiêu thụ lương thực, thực phẩm và tình trạng dinh dưỡng của người Việt Nam trong 20 năm qua - mới được Viện Dinh dưỡng công bố - đã làm rõ sự thật: Người VN đã có "một bữa no" đến quá mức. Lượng tiêu thụ thịt, chất béo ở người trưởng thành đã tăng lên rất nhanh, năm 1987 chỉ là 24,4 g/người/ngày đã lên tới 62 g/người/ngày năm 2005. Dầu mỡ cũng tăng từ 3 g/người/ngày lên 15,2 g/người/ngày...

Trong khi đó, thức ăn là cá và các loại hải sản chỉ dừng ở mức 50 g/người/ngày trong suốt 20 năm. Rau là thức ăn rất tốt cho sức khỏe lại có xu hướng giảm đi, từ 214 g/người/ngày xuống còn 203 g/người/ngày...

TS. Nguyễn Công Khẩn - Viện trưởng Viện Dinh dưỡng - đã chỉ ra những bất cập trong thói quen ăn uống của người VN là ăn uống không điều độ, ăn theo sở thích. Đáng lẽ phải ăn nhiều rau, giảm ăn thịt thì chúng ta lại ăn nhiều thịt mà ít rau.

Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi người mỗi ngày cần ăn 300 g rau thì người VN chỉ ăn có 100 g, cần ăn 100-200 g cá thì chúng ta cũng chỉ ăn có 50 g. Một cách ăn tai hại nữa là ăn quá nhiều muối, khuyến nghị chỉ ăn 6 g muối/người/ngày thì lại ăn đến hơn 20 g muối...

Hệ lụy "nhãn tiền"

Tưởng rằng, miếng ăn chỉ đơn giản là thoả mãn khẩu vị, ý thích mà không mấy ai biết rằng bệnh vào từ chính miếng ăn. Trước năm 1995, bệnh thừa cân, béo phì chỉ là chuyện ở các nước phương Tây. Nhưng ngay những năm sau đó, thừa cân, béo phì đã xuất hiện và gia tăng không ngừng.

Năm 2000, tỉ lệ béo phì ở người trưởng thành ở Hà Nội và TP.HCM là 10%, đến 2005 tỉ lệ này trong cả nước đã tăng lên 16,3%. Hội chứng chuyển hoá lần đầu tiên được điều tra cũng đã phát hiện có hơn 13% người mắc. Tăng huyết áp đã tăng lên 23%, số người đột quỵ tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước và người bị nhồi máu cơ tim tăng gấp 6 lần so với thập kỷ 60. Đái tháo đường cũng lên tới 5% số người mắc...

Các bệnh mạn tính không lây này gia tăng, đã đóng góp vào sự thay đổi mô hình bệnh tật và tử vong. VN đang đứng trước "gánh nặng kép về dinh dưỡng", trong khi suy dinh dưỡng vẫn còn là thách thức thì lại nảy sinh nhiều vấn đề khác liên quan đến dinh dưỡng.

Có một thực tế rất rõ ràng rằng, cách ăn của người VN - đặc biệt là những người ở thành phố - đã thay đổi từ 5-10 năm nay. Sự chuyển đổi này hoàn toàn theo hướng tự phát mà không hề có sự tư vấn, hướng dẫn của các chuyên gia dinh dưỡng. Đến bây giờ, Viện Dinh dưỡng mới chỉ ra những cách ăn uống bất hợp lý liệu có phải là những lời khuyến cáo quá muộn màng chăng

Sự thay đổi thói quen ăn uống trong 20 năm trở lại đây

Việt nam trong giai đoạn sau giải phóng (1975) và trước công cuộc “đổi mới” năm 1986 lâm vào tình cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm một cách nghiêm trọng, là một quốc gia nghèo đói trong khu vực luôn cần đến sự viện trợ từ những người bạn quốc tế, đặc biệt là các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Lương thực chủ yếu là cơm (gạo), trong khi đó năng suất trồng lúa rất thấp, có nơi chỉ 1,5 tone/ha.

Từ giai đoạn nghèo khó...

Người dân phải sử dụng thêm các nguồn lương thực khác từ: ngô, khoai, sắn, hạt bo bo,…thậm chí sử dụng các lương thực kém chất lượng. Trong giai đoạn đó, với cơ chế tập trung, bao cấp, không cho phép tồn tại kinh tế cá thể, việc giao thương chỉ xảy ra trong khu vực quốc doanh, cung không đủ cầu, dẫn đến tình trạng khan hiếm mọi nhu yếu phẩm, trong đó có thực phẩm. Nhiều người đã sống qua thời kỳ đó đều không khỏi rùng mình mỗi khi nhớ lại. Người ta gọi nó là: thời kỳ bao cấp. Khi tôi lớn lên thì thời kỳ đó đang lùi dần, bóng dáng của sự thiếu thốn và lạc hậu vẫn còn đó, trẻ con nông thôn quê tôi đến 10 tuổi lên thành phố mới nhìn thấy quả dưa hấu thật (trước đây chỉ xem trong sách tập đọc). Như vậy, bạn có thể hình dung được trong giai đoạn đó, tình hình dinh dưỡng của Việt Nam như thế nào. Và người dân khi đó không hề biết đến có một loại bệnh gọi là bệnh ĐTĐ tồn tại!!! (cũng không thể không kể đến sự chậm phát triển về y tế và giáo dục cũng là nguyên nhân của sự vô tình này).

…Đến dư thừa…,

Bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới với hàng loạt các thay đổi về chính sách và đường lối kinh tế, các kế hoạch 5 năm, 10 năm liên tiếp diễn ra sau đó đã mang lại những thành quả to lớn về phát triển kinh tế, xã hội. Việt Nam dần xóa bỏ đói nghèo và vươn lên thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới vào năm 2004 (Bộ ngoại giao).

…và sự thay đổi…

Sự phát triển kinh tế-xã hội nhanh chóng trong hai mươi năm trở lại đây cùng với xu thế hội nhập văn hóa của Việt Nam với thế giới đã dẫn đến những thay đổi lớn về thói quen ăn uống và dinh dưỡng của người dân Việt.

Sự thay đổi về số lượng và chất lượng của thực phẩm:

Từ tình trạng thiếu thốn đến dư thừa; từ các món ăn thuần túy rất thiên nhiên đến những món ăn được chế biến cầu kỳ, sử dụng nhiều phụ gia để tăng tính hấp dẫn; từ thực phẩm sạch, an toàn đến các thực phẩm tồn dư hóa chất chống sâu bọ, tăng năng suất, và hóa chất bảo quản thực phẩm trong quá trình lưu chuyển, phân phối. Món ăn trong bữa ăn hàng ngày trở nên công phu hơn với các cách chế biến sử dụng thêm dầu ăn, các loại gia vị khác: các món xào, hầm, chiên, rán, nướng… xuất hiện với tần suất cao hơn thay vì các món luộc, hấp, ăn tươi,…như trước đây. Người lớn trong gia đình cũng như trẻ nhỏ, không có sự cân đối calories để lên thực đơn ăn uống hàng ngày. Phân lớn bữa ăn được xây dựng theo cảm tính và theo sở thích trong ăn uống của các thành viên.

Sự du nhập văn hóa ẩm thực phương tây ngày càng sâu rộng:

Sự xuất hiện của hàng loạt các nhà hàng Châu Âu tại các khu vực thành phố, đô thị, món ăn Pháp, Ý, Tây Ban Nha, và món ăn Ấn Độ đều đã có mặt ở Việt Nam. Đó là: pizza, pasta, spaghetti, khoai tây chiên, bơ, phô-mai, curry, bánh mỳ, snack, bánh ngọt, bánh kem, mứt,… là những món ăn hấp dẫn giới trẻ và những người Việt có mức sống khá cao.

Nhà hàng, quán bia…nơi hội ngộ sau X giờ làm việc, nơi khởi đầu của những mối hợp tác mới.

Xem thêm: Thể thao điện tử là gì ? top game esport tiếng anh

Bên cạnh những nhà hàng sang trọng, đắt tiền giành cho khách sành ăn và có mức sống cao, những người lao động chân tay, những ông chủ nhỏ, dân trí thức thu nhập thấp,và cả sinh viên,…cũng có những nơi để hội ngộ phù hợp: đó là những nhà hàng bình dân ở những góc phố, những quán bia hơi ngay trên vỉa hè,…(pictures). Ở đó người ta thỏa sức cụng ly với những tiếng hô khí thế Zzoo!!! Zzoo!!! Và những cốc bia liên tiếp được phục vụ chuyển đến…đó là những giây phút được xả hơi sau một ngày mệt mỏi và căng thẳng. Suốt cuộc nhậu, họ chỉ cần một chút đồ ăn: có thể chỉ là mấy hạt đậu phộng, thậm chí không cần gì (bởi mỗi người trong một cuộc nhậu có thể đã uống 2-3 lít bia hoặc hơn thế!!!)

Nói tóm lại, trong ăn uống có mặt bảo thủ của khẩu vị, của lối ăn, của thức ăn, nhưng đồng thời vẫn có sự thay đổi dần dần của khẩu vị tập thể. Trong thời đại toàn cầu hóa, cách ăn uống của chúng ta cũng phải thay đổi cho thích hợp với nhịp sống và làm việc của thời hiện đại. Trong kinh doanh ăn uống, nhiều món ăn mới được sáng tạo nhưng vẫn được phát triển trong dòng văn hóa ăn uống của người Việt.